
Vì sao Charlie Kirk bị sát hại lại gây chấn động mạnh đến vậy trong xã hội? Phải chăng vì anh bị hạ sát dã man khi đang ở đỉnh cao sự nghiệp? Hay vì anh để lại vợ và hai đứa con nhỏ dại? Liệu có phải vì không ai đáng phải chết như vậy? Chắc chắn rồi, vì tất cả những điều đó. Nhưng tôi tin rằng còn một điều sâu xa hơn nữa, đó là anh ấy đã ra đi với chiếc micro trên tay – không phải súng, dao, hay lựu đạn, mà là một chiếc micro.
Cách làm của Charlie Kirk, được anh áp dụng tại các trường đại học khắp cả nước, là mời những người bất đồng quan điểm tham gia vào một cuộc đối thoại công khai. Bạn có thể thấy được cách anh ấy xử sự, hành động trên hàng ngàn video YouTube. Bạn thấy đấy, anh ấy không bao giờ lảng tránh các câu hỏi gai góc, và luôn đối xử với người đối thoại một cách tôn trọng, dù quan điểm của anh hoàn toàn trái ngược với họ. Vài tháng trước thôi, tôi đã nhắn tin chúc mừng anh ấy sau khi xem anh ấy xử lý một cách nhã nhặn và tươi cười, trước đám sinh viên "woke" khá là trơ tráo, thô lỗ với anh.
Với cách làm này, Charlie đã tiếp bước một truyền thống đáng kính có từ xưa, một trong những nền tảng của văn minh phương Tây. Trên các con đường ở Athens thế kỷ thứ 5 TCN, Socrates đã nói chuyện, đặc biệt với các người trẻ, không phải bằng các bài diễn thuyết gay gắt, mà bằng các cuộc trao đổi. Ông đã đưa ra những câu hỏi sâu, phản biện lại câu trả lời nhận được, khuyến khích đối phương trình bày quan điểm rõ ràng hơn, và sẵn sàng thừa nhận khi ông chưa nhìn ra điều gì quan trọng. Học trò giỏi nhất của Socrates là Plato đã cho chúng ta một phiên bản văn học của các cuộc đối thoại đó trong những tác phẩm nổi tiếng của mình. Và học trò của Plato, là Aristotle, đã mở ra trường phái triết học "peripatetic," vì thầy và trò cùng nhau học tập, trao đổi quan điểm khi đi dạo. Một ví dụ tương tự là truyền thống của các đại học Oxford và Cambridge, nơi sinh viên học tập hiệu quả nhất không phải qua các buổi học trên giảng đường mà qua sự trao đổi giữa từng giảng sư với học trò.
Nếu Athens là nền móng của văn minh phương Tây, thì Giêrusalem chắc chắn là nền móng còn lại. Và trong bối cảnh mang đậm tính tôn giáo đó, chúng ta được thấy một phương pháp tương tự như thế. Trong bối cảnh Do Thái giáo, việc học hỏi cổ điển thường diễn ra qua những cuộc đàm thoại sôi nổi giữa hai học viên khi họ cùng nhau đào sâu Kinh Thánh hoặc Talmud. Hơn nữa, khi trò chuyện với nhau, họ cũng viện dẫn các ý kiến của nhiều vị rabbi và học giả trải dài qua nhiều thế kỷ. Kitô giáo cũng có một phiên bản tương tự, đó chính là công trình của vị thánh mà tôi vô cùng ngưỡng mộ về mặt tri thức: thánh Tôma Aquinô. Tại các trường đại học thời Trung Cổ, sinh viên học chủ yếu qua các buổi "tranh luận" (quaestiones disputatae). Đây là những buổi thực hành công khai, trong đó một vị thầy như thánh Tôma Aquinô sẽ trình bày cách giải quyết một vấn đề, rồi sau đó lắng nghe các ý kiến phản đối – có khi là hàng chục, hàng trăm – và cuối cùng, giải đáp từng ý kiến một. Tôi biết rằng các bản văn của thánh Tôma có thể có vẻ khô khan, lý trí, nhưng chúng ta phải nhìn nhận chúng như những sự tái hiện bằng văn chương của những cuộc tranh luận sôi nổi, thường mang tính phản biện gay gắt đó. Chắc chắn rằng, truyền thống tìm kiếm sự thật thông qua đối thoại này đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các Vị Quốc Phụ của chúng ta, những người đã xây dựng cả một hệ thống chính trị dựa trên đối thoại, tranh luận và quyền tự do ngôn luận.
Có hai tiền đề cơ bản làm nền tảng cho phương pháp đối thoại này, đó là phẩm giá con người và tính khách quan của chân lý. Cho phép tôi phân tích từng điều một. Nếu người ta không tin vào nhân phẩm của con người, thì cách tốt nhất để đạt được sự đồng thuận sẽ là đàn áp bạo lực hoặc tìm cách loại bỏ người đối lập. Thế hệ cha mẹ tôi và tôi đã chứng kiến điều này được thể hiện một cách rõ ràng và khủng khiếp trong các chế độ toàn trị Hitler, Mao, Stalin, Pol Pot và Castro. Những kẻ có quyền lực không hề đối thoại, họ ném người khác vào tù, tra tấn hoặc giết chết họ. Nhưng nếu một người biết tôn trọng giá trị nội tại của mỗi con người, họ sẽ dùng lời nói thay vì súng, dùng lý lẽ thay vì đe dọa.
Tiền đề thứ hai là thế giới có một trật tự hợp lý, vì vậy có những giá trị khách quan—về cả kiến thức lẫn đạo đức—mà ta có thể dựa vào khi tranh luận với người khác. Nếu không có một nền tảng chung để hai người đối thoại có thể viện dẫn như vậy, cuộc tranh luận sẽ biến thành một cuộc cãi vã. Hãy tưởng tượng một nhóm trẻ cố gắng chơi bóng chày mà không có luật chơi chung. Chúng sẽ chẳng chơi được gì; mà rất nhanh sẽ chuyển sang đánh lộn.
Giờ đây, cho phép tôi suy tư sâu hơn một chút nữa. Cả hai tiền đề đang được xét đến đều dựa trên một tiền đề còn cơ bản hơn nữa, đó là sự hiện hữu của Thiên Chúa. Vì sao chúng ta lại đề cao phẩm giá của mỗi con người? Thomas Jefferson đã khẳng định: "Chúng tôi coi những chân lý này là hiển nhiên, rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng họ được Đấng Tạo Hóa ban tặng những quyền bất khả xâm phạm." Nếu gạt bỏ Đấng Tạo Hoá ra khỏi công thức đó, thì logic sẽ sụp đổ. Chúng ta tôn trọng từng con người một vì chúng ta tin — dù có ý thức hay không — rằng họ là con cái được Thiên Chúa yêu thương. Và tại sao chúng ta lại nghĩ rằng có một chuẩn mực, một nền tảng ý nghĩa chung? Chúng ta làm như vậy vì tin rằng tính khả tri của thế giới (nền tảng của mọi ngành khoa học) và tính khách quan của giá trị luân lý (điều mà mọi cuộc đối thoại về luân lý đều cần) đều bắt nguồn từ một Thiên Chúa Tạo Hóa, Đấng đã làm phát sinh chúng. Tóm lại, chúng ta có một chuẩn mực thiêng liêng để đo lường đúng sai, thiện ác.
Vậy điều gì xảy ra khi chúng ta phủ nhận Thiên Chúa hoặc khi đức tin phai nhạt? Điều xảy ra là những điều kiện để có một cuộc đối thoại văn minh bị tổn thương một cách trầm trọng. Và chẳng phải chúng ta đã thấy quá nhiều bằng chứng cho điều này sao? Theo tôi, điều tồi tệ nhất từ cái chết của Charlie là hàng loạt video ăn mừng cái chết của anh. Và những video này không chỉ đến từ những kẻ điên rồ trên mạng, mà còn với số lượng đáng báo động, từ cả giảng viên, giáo sư, bác sĩ và quan chức chính phủ. Tôi không cần biết bạn bất đồng với ai đó đến mức nào; nếu bạn ăn mừng cái chết của họ, bạn đã đánh mất mọi ý thức về phẩm giá con người. Và bạn thấy đó, đặc biệt là nơi những người trẻ bị tiêm nhiễm tư tưởng "woke", một quan điểm cho rằng không có gì là đúng-sai, thiện-ác khách quan, chỉ có trò chơi quyền lực giữa kẻ áp bức và người bị áp bức thôi. Mới đây, tôi thấy một con số đáng sợ: 34% sinh viên đại học cho rằng có thể dùng bạo lực để đáp trả các ý kiến không vừa lòng. Quan điểm đó chỉ hợp lý khi bạn đã từ bỏ hoàn toàn mọi chuẩn mực chung. Nếu tranh luận chẳng còn ý nghĩa, bạo lực sẽ lên ngôi.
Tôi không thể không nhìn thấy sự liên hệ giữa con số đáng sợ đó và việc ngày càng nhiều người trẻ từ bỏ Giáo hội. Khi người ta ngừng đến nhà thờ, họ ngừng suy nghĩ về Thiên Chúa, ngừng cầu nguyện, họ không còn được nghe về Mười Điều Răn, không lắng nghe lời kêu gọi bênh vực người yếu thế, người nghèo của các ngôn sứ, không đọc Bài Giảng Trên Núi, và cũng không thấm nhuần lời "những gì anh em đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là đã làm cho chính Ta". Và khi những điều đó không được thấm nhuần, con người không còn tin rằng anh chị em mình cần được trân trọng và rằng một nền đạo đức vượt trên những sự xung khắc ý chí là điều khả thi.
Và để kết lại, tôi muốn nhắc đến bài phát biểu gây tranh cãi nổi tiếng của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI tại Đại học Regensburg năm 2006, khi ngài nói chuyện với các đồng nghiệp cũ. Gạt sang một bên phần đề cập đến Hồi giáo vốn đã gây ra mọi tin tức tiêu cực, tôi muốn hướng sự chú ý của quý vị đến trọng tâm lập luận của ngài, đó là việc Kitô giáo ưu tiên Lý Trí, Lời (Logos) hơn ý chí. Vì Đức Giêsu là Lý Trí, là Lời (hay Ngôi Lời) của Thiên Chúa, ngài lập luận rằng Kitô giáo luôn tự tin tiếp cận mọi ngành khoa học, triết học hay quan điểm văn hóa nào tôn trọng lý trí. Mặt khác, khi ý chí được đề cao hơn lý trí, đối thoại có xu hướng biến thành sự áp bức và bạo lực, khi một ý chí chỉ đơn giản khẳng định mình chống lại ý chí khác. Tôi tin rằng chủ nghĩa ý chí (voluntarism) này là một đặc trưng của nền văn hóa hậu hiện đại đầy hoài nghi, thứ đã định hình nhiều người trẻ ngày nay. Và những kết quả xảy ra đúng như Đức Giáo hoàng Bênêđictô đã dự đoán.
Tất cả những điều này đưa tôi trở lại với Charlie Kirk. Cho đến hơi thở cuối cùng, Charlie vẫn thực hành một công việc có từ thời Socrates, là công việc ấy đã làm nên một phương Tây ở giai đoạn đỉnh cao nhất của nó. Và đó chính là lý do tại sao tất cả chúng ta đều cảm thấy bàng hoàng trước cái chết của anh ấy. Chúng ta cảm thấy điều gì đó, vốn là căn cốt của sự văn minh, là nền tảng không thể lay chuyển, bỗng chốc trở nên chênh vênh, chao đảo — và những ảnh hưởng văn hóa độc hại đã thật sự len lỏi vào các tổ chức và đầu óc con cái chúng ta. Tôi thiết tha mong ước và thầm thĩ nguyện xin: chúng ta có thể tìm lại được nguồn cảm hứng, và lòng quả cảm từ người đàn ông đạo đức sốt sắng, đã dũng cảm và đã chết không phải với súng đạn, mà với một thiết bị giúp đối thoại, truyền thông, giao tiếp.
- TÁC GIẢ: ĐGM. Robert Barron // Đức Giám mục Robert Barron là giám mục giáo phận Winona-Rochester và là người sáng lập Hiệp hội Công giáo "Word on Fire".
- CHUYỂN NGỮ: Nhóm Phiên dịch Mai Khôi
- LINK NGUỒN: FIRSTTHINGS.COM